Thị trường hàng hóa
Tiềm năng dịch vụ chưa được khai thác hiệu quả
Chia sẻ tại sự kiện công bố báo cáo điểm lại kinh tế Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức mới đây, bà Carolyn – Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam nhận định, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt hơn 8,0% trong năm 2022, cao hơn tốc độ tăng bình quân 7,1% của giai đoạn 2016-2019. Tuy nhiên, bước sang năm 2023, do ảnh hưởng tác động của kinh tế toàn cầu, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự báo chỉ đạt 6,3%, thấp hơn mục tiêu đề ra là 6,5%.
Theo nhận định của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, mặc dù du lịch tiếp tục phục hồi nhưng tăng trưởng khu vực dịch vụ sẽ chậm lại do hiệu ứng xuất phát điểm thấp hậu Covid-19 yếu dần. Nhu cầu trong nước dự kiến sẽ bị ảnh hưởng do lạm phát có thể tăng cao hơn trong năm 2023 (bình quân 4,5%), khiến sức mua của các hộ gia đình bị xói mòn. Lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân…
Trong bối cảnh đó, để cải thiện tốc độ tăng trưởng, Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam cần “đánh thức” tiềm năng dịch vụ. Bởi khu vực dịch vụ dù đã và đang có những đóng góp hết sức quan trọng cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, nhưng kết quả đạt được còn kiêm tốn so với các quốc gia so sánh khác.
Trong thập kỷ qua, các ngành dịch vụ là khu vực lớn nhất của nền kinh tế. Quy mô khu vực dịch vụ tăng từ 40,7% GDP trong năm 2010 lên 44,6% GDP trong năm 2019. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành dịch vụ tăng từ 19% năm 1991 lên 35,3% năm 2019, hấp thụ phần lớn lao động dịch chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp và biến khu vực dịch vụ trở thành nguồn cung cấp việc làm đứng thứ hai trong cả nước, sau nông nghiệp.
“Trong thời gian tới, các ngành dịch vụ có thể đóng vai trò chính trong hỗ trợ Việt Nam duy trì tăng trưởng năng suất một cách bền vững để vươn tới khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045” – các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới dự báo.
Đặc biệt, theo đại diện Ngân hàng Thế giới, tất cả các nền kinh tế thu nhập cao đều có đặc trưng sở hữu một khu vực dịch vụ lớn, vừa là nơi thu hút việc làm lớn nhất vừa tạo giá trị gia tăng, đóng vai trò thiết yếu để nâng cao năng suất cho các nền kinh tế đó. Ví dụ, vào năm 2019, dịch vụ (theo giá trị gia tăng) chiếm 70,8% GDP của Singapore và 57,2% của Hàn Quốc. Tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ lần lượt chiếm 84% và 70% tổng số lao động tại Singapore và Hàn Quốc.
Ngoài ra, dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cấp mô hình phát triển của Việt Nam qua nâng cao giá trị gia tăng ở các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả đạt được của khu vực dịch vụ chưa xứng tầm so với các quốc gia so sánh khác. Năng suất và việc làm ở khu vực dịch vụ của Việt Nam vẫn thấp hơn so với các quốc gia so sánh trong khu vực, có cơ cấu tương tự hoặc phát triển hơn.
Ví dụ, năng suất lao động trong các lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam (được đo bằng giá trị gia tăng trên mỗi lao động) tăng 34,33% trong giai đoạn từ năm 2011 – 2019. Tuy nhiên, mặc dù ở mức 5,000 USD mỗi nhân công năm 2019, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia so sánh, như Malaysia (20,900 USD), Philippines (9,300 USD) và Indonesia (7,300 USD).
Ngành dịch vụ của Việt Nam bị chi phối bởi các công ty quy mô nhỏ, sử dụng trung bình chỉ 1,5 lao động. Quy mô này chỉ bằng khoảng một nửa so với quy mô dự kiến dựa trên mức GDP của Việt Nam. Ngoài ra, Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (STRI) của OECD năm 2021 đối với Việt Nam tương đối cao so với hầu hết các quốc gia mà Viêt Nam đang hướng tới (Singapore, Hàn Quốc, Malaysia), chủ yếu là do hạn chế đầu tư nước ngoài để cung cấp dịch vụ…
4 giải pháp để Việt Nam “đánh thức” tiềm năng dịch vụ
Để khắc phục những hạn chế trên, đại diện Ngân hàng Thế giới khuyến nghị, Việt Nam cần tập trung vào 4 giải pháp, bao gồm: Thứ nhất, Việt Nam có thể giảm hơn nữa những hạn chế về thương mại dịch vụ và sự tham gia của đầu tư nước ngoài.
Bởi Chỉ số hạn chế thương mại dịch vụ (STRI) của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) cho thấy, những lĩnh vực dịch vụ “xương sống” như: Viễn thông, kho vận (logistics), hàng không, dịch vụ pháp lý, ngân hàng, và bảo hiểm vẫn phải đang đối mặt với nhiều rào cản hạn chế lớn và chưa có nhiều tiến triển trong việc loại bỏ hoặc hạ thấp những rào cản đó những năm gần đây.
Ví dụ cụ thể hơn, vận tải hàng hóa vốn đầu tư nước ngoài bị hạn chế theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn trong lĩnh vực vận tải hàng hóa đường bộ và đường thủy nội địa (vốn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (FDI) tương ứng tối đa 51% và 49%).
Để tạo thuận lợi hơn, thời gian tới, các cấp có thẩm quyền có thể cần cân nhắc: Giảm rào cản gia nhập của vốn FDI vì công nghệ và đổi mới sáng tạo phụ thuộc vào khả năng tiếp cận tri thức, các mạng lưới, con người, hàng hóa và dịch vụ mà có thể lan tỏa tri thức đi khắp thế giới. Cùng với đó, thực hiện những cải cách về môi trường kinh doanh để nâng cao cạnh tranh và khả năng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, Việt Nam cần khuyến khích tiếp tục áp dụng công nghệ số trong từng doanh nghiệp để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đánh giá mới đây của Ngân hàng Thế giới về các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (STI) của Việt Nam cho thấy, đã có sự quan tâm lớn hơn đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo dựa trên nghiên cứu phát triển của nước ngoài và chính phủ đang nỗ lực “thúc đẩy hàng ngũ tiên phong về công nghệ” bằng cách hỗ trợ các trường đại học và viện nghiên cứu thay vì hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Song những chính sách trên chưa chú trọng nhiều đến các hình thức đổi mới sáng tạo không dựa trên nghiên cứu và phát triển, chẳng hạn áp dụng công nghệ.
Thứ ba, Việt Nam cũng cần tập trung vào việc tăng cường các kỹ năng của người lao động (đặc biệt là các kỹ năng kỹ thuật số cơ bản) cũng như năng lực của các công ty và nhà quản lý.
Thứ tư, khai thác dịch vụ để thúc đẩy tăng trưởng cao hơn ở các ngành, lĩnh vực vực khác, đặc biệt là chế tạo chế biến. Ví dụ, dịch vụ số có thể đóng vai trò lớn nhằm đưa công nghệ mới và đổi mới sáng tạo vào các hoạt động chế tạo chế biến, do hiện nay mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ số “Công nghiệp 4.0”.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm