Thị trường hàng hóa
Ông Vũ Đức Giang- Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết: 10 tháng năm 2022, ngành dệt may Việt Nam đạt 37,9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 17,2% so với cùng kỳ; xuất khẩu sang 66 quốc gia, vùng lãnh thổ với từ 47-50 các mặt hàng khác nhau.
Về thị trường xuất khẩu, Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 42%, tiếp đến là Trung Quốc 11%, Nhật Bản và Hàn Quốc cùng chiếm 9%, thị trường khu vực ASEAN chiếm 6%, Nga 1% và còn lại là các thị trường khác.
Quần áo may mặc các loại vẫn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, tới 29,1 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu trọng tâm Mỹ với 13,9 tỷ USD; các nước trong khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 4,733 tỷ USD; các nước EU 3,63 tỷ USD; Hàn Quốc 2,525 tỷ USD; Trung Quốc 925 triệu USD.
Ngoài quần áo, ngành dệt may Việt Nam cũng xuất khẩu vải với 2,13 tỷ USD, xơ sợi 4,083 tỷ USD, phụ liệu may 1,165 tỷ USD, vải địa 747 triệu USD.
“Kết quả đạt được cho đến thời điểm này là nỗ lực rất lớn của ngành dệt may Việt Nam, nhất là trong bối cảnh thị trường tiêu dùng thế giới chững mạnh trong quý cuối cùng của năm 2022”, ông Vũ Đức Giang chia sẻ.
Ông cũng đồng thời cho rằng, có nhiều yếu tố giúp ngành dệt may Việt Nam vượt qua thách thức và đạt kết quả khả quan. Đầu tiên là tác động từ quá trình mở cửa của đất nước với các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực là nền tảng cho doanh nghiệp đa dạng hoá thị trường.
Bối cảnh giảm phát, đồng tiền mất giá và sức mua của các nước lớn giảm là cú sốc lớn buộc doanh nghiệp phải tìm hướng đi riêng để thúc đẩy thị trường mới. Cùng đó, quá trình chuyển đổi sản phẩm, thúc đẩy quản trị số, bắt nhịp kinh tế tuần hoàn, người lao động có tay nghề tốt, ổn định và tuân thủ luật chơi với các nhà nhập khẩu cũng là yếu tố giúp dệt may Việt Nam vượt khó thành công.
Về áp lực trong những tháng còn lại của năm 2022 và đầu năm 2023, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng còn khá nặng nề: Theo tính toán của hiệp hội, đơn hàng bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 25-27%. Doanh nghiệp sản xuất gia công, sản xuất mặt hàng giá rẻ chịu tác động nặng nề nhất, thậm chí phải làm không công. Doanh nghiệp FOB, ODM tuy chịu ảnh hưởng từ biến động tỷ giá do phải bỏ ngoại tệ mua nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất. Bù lại, doanh nghiệp chủ động được đơn hàng, chủ động được khách hàng. “Tỷ trọng gia công trong ngành dệt may hiện còn rất thấp. Năm 2022 là 17-18% sẽ được đẩy nhanh chuyển đổi trong năm 2023”, ông Vũ Đức Giang thông tin.
Trước hiện tượng lao động bị nghỉ việc được truyền thông phản ánh trong thời gian gần đây, với ngành dệt may, lãnh đạo Hiệp hội Dệt may Việt Nam khẳng định là có nhưng tỷ trọng thấp, chỉ khoảng 5-7%. Các doanh nghiệp dệt may trong nước đang bằng nhiều cách để duy trì hoạt động sản xuất, duy trì việc làm và thu nhập cho người lao động. Đã có doanh nghiệp phải chuyển đổi mặt hàng sản xuất với năng suất thấp để giữ ổn định lao động, đón sự phục hồi của thị trường được dự báo vào quý III, IV/2023.
Về thị trường nội địa, 10 tháng doanh thu nội địa của ngành đạt 4,8 tỷ USD, mục tiêu cả năm là 5,8 - 6 tỷ USD. Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử đã góp sức đáng kể cho các doanh nghiệp phát triển thị trường trong nước. Nếu như năm 2021 tỷ lệ doanh nghiệp dệt may bán hàng qua thương mại điện tử chỉ khoảng 7-8%, năm nay đã tăng lên 18-20%. “Riêng nhãn hàng Yody, doanh thu từ thương mại điện tử đã chiếm 50%”, ông Vũ Đức Giang cho hay.
Đáng nói, không chỉ với thị trường trong nước, kinh doanh qua môi trường Internet cũng được các nhà nhập khẩu áp dụng triệt để. Những nhãn hàng lớn hầu hết vẫn đưa ra ý tưởng, trao đổi với doanh nghiệp Việt Nam qua môi trường trực tuyến để doanh nghiệp thiết kế, chào giá, thậm chí có nhãn hàng còn chưa đến Việt Nam.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm