Thị trường hàng hóa
Trước đại dịch Covid-19, nước ta cũng từng bàn nhiều về chuyển đổi số, về giải pháp công nghệ và các sản phẩm công nghệ mang trí tuệ Việt Nam. Nhưng chỉ sau dịch bệnh, tư duy này càng được đẩy nhanh và chuyển hóa triệt để.
Công nghệ là trái tim của thời kỳ hậu Covid-19. Công nghệ giúp mọi người kết nối với nhau và đến với các cơ hội bất chấp rào cản về khoảng cách xã hội do Covid-19 áp đặt.
Cơ hội do công nghệ tạo ra trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT) ít hơn nhiều so với cơ hội do công nghệ tạo ra và các vấn đề được nó giải quyết trong các lĩnh vực khác, bao gồm tài chính, nông nghiệp, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, năng lượng, công nghiệp và thương mại.
Thế giới đã thay đổi và tăng trưởng toàn cầu chậm lại. Thách thức thực sự đối với Việt Nam là làm thế nào để chuyển dịch từ lắp ráp, gia công sang làm chủ công nghệ và chủ động trong sản xuất – đặc biệt đối với các doanh nghiệp công nghệ.
So với thế giới, Việt Nam vẫn còn chưa mạnh về tốc độ đổi mới và thiết kế. Thông tin từ Cục Sở hữu trí Tuệ cho thấy: Chỉ có 11.89%% đơn nộp sáng chế được đăng ký ở Việt Nam là do các công ty Việt Nam thực hiện.
Có nhiều yếu tố khiến các công ty công nghệ Việt Nam gặp trở ngại khi tăng cường đầu tư vào R&D, vốn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong doanh thu. Tuy nhiên, một hệ sinh thái nền tảng và một môi trường khuyến khích đầu tư công nghệ sẽ là “bó hoa hy vọng” nâng cao vị thế cho các thương hiệu công nghệ.
Tính đến cuối năm 2021, Việt Nam có 64.000 doanh nghiệp công nghệ số, tăng 9.5% so với năm 2020. Năm 2022, Việt Nam có 119 tổ chức thúc đẩy kinh doanh/vườn ươm doanh nghiệp, 4000 startup và 4 “kỳ lân” công nghệ (VNG, VNLife, MoMo và Sky Mavis), đứng thứ ba Đông Nam Á, chỉ sau Singapore và Indonesia.
Sáng tạo và làm chủ công nghệ không chỉ được hiểu là áp dụng “công thức của thế giới” để giải bài toán Việt Nam, mà còn là việc sử dụng thị trường nội địa làm bàn đạp, từ đó đi ra toàn cầu và giải quyết bài toán toàn cầu. Việc áp dụng các công nghệ mới như robot và trí tuệ nhân tạo - những thứ đang có tác động to lớn đến sản xuất – cũng quan trọng không kém.
Make in Vietnam còn là chìa khóa tạo việc làm. Bởi vấn đề tạo việc làm không tách rời khỏi sản xuất. Thúc đẩy sản xuất, giải phóng sức sản xuất bằng cách thực hiện các cải cách về lao động, sẽ cho phép Việt Nam trở thành một quốc gia sản xuất lớn mạnh.
Mọi bộ phận của hệ thống sản xuất - bao gồm lập kế hoạch, thiết kế, chế tạo và phân phối - phải hoạt động tốt. Phần mềm cao cấp kết nối các quy trình sản xuất; nguồn cung cấp R&D tiên tiến cho các tập đoàn toàn cầu. Doanh nghiệp Việt đặt nó cùng với “cổ tức nhân khẩu học” (sự thúc đẩy năng suất kinh tế khi gia tăng tỷ lệ người lao động), chúng ta sẽ có một hệ sinh thái phát triển mạnh và bền vững.
Tại Diễn đàn quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng giải thích “Make in Vietnam” là một nội hàm bao gồm: Sáng tạo tại Việt Nam, làm ra tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, sản xuất tại Việt Nam.
Để thành công tại thương trường quốc tế, Việt Nam cần tạo ra các thương hiệu Make in Vietnam được công nhận trên toàn cầu. Điều này cần nỗ lực tổng hợp của các ngành công nghiệp và chính phủ để xây dựng các thương hiệu uy tín, bởi thương hiệu của một sản phẩm luôn đi sau thương hiệu của quốc gia.
Theo chuyên gia Nguyễn Tất Thịnh, Chủ tịch hội đồng Giảng huấn Tổ chức Giáo dục Đào tạo PTI, giá trị thương hiệu quốc gia (GTTHQG) là giá trị vô hình, có được từ tổng năng lực tích lũy, phát sinh và gia tăng qua các năm liên tục, thành các lợi ích kinh tế – xã hội tiềm năng (cho tương lai gần) của một quốc gia. GTTHQG càng lớn thì càng nhiều ngành nghề, thành phần được hưởng lợi trong hội nhập, như một quyền lực hay một nguồn lực vô hình.
Để tăng cường GTTHQG, mỗi quốc gia phải tập trung xuất khẩu được “giá trị nào đó mà thế giới cần”. Chuyên gia Nguyễn Tất Thịnh phân hạng các giá trị chính yếu đó thành bốn nhóm lớn: Xuất khẩu tư tưởng và văn minh về khoa học và quản trị; Xuất khẩu công nghệ cùng các máy móc trang thiết bị dây chuyền tiêu chuẩn; Xuất khẩu những sản phẩm , dịch vụ gia tăng, chứa đựng những giá trị ưu trội; và cuối cùng là xuất khẩu tài nguyên cùng các nhân công lành nghề ở chuỗi thấp hoặc lao động đơn giản.
Bên cạnh đó, cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính là một lý do chính khác góp phần gia tăng GTTHQG. Các nhà phân tích kinh tế có chung một dự báo: Việt Nam trong nhiều năm tới chắc chắn sẽ không ngừng thúc đẩy các thương hiệu tăng trưởng xanh, sạch, bền vững và đáng tin cậy.
Ngoài tác động chưa từng có đối với sức khỏe, đại dịch Covid-19 đã gây ra thảm họa cho nền kinh tế toàn cầu và các doanh nghiệp. Covid-19 làm gián đoạn hoạt động sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu (GVC), làm xáo trộn các giai đoạn sản xuất khác nhau ở các địa điểm khác nhau xung quanh thế giới.
Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đại dịch đã thúc đẩy những thay đổi cơ bản đang diễn ra trong GVC, được thúc đẩy bởi sự kết hợp của ba xu hướng lớn: Công nghệ mới nổi; tính bền vững môi trường bắt buộc; và sự tái cấu hình của toàn cầu hóa.
Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng này, khi các công ty toàn cầu điều chỉnh các chiến lược sản xuất và chuỗi cung ứng của họ để xây dựng khả năng phục hồi, Việt Nam tìm thấy cơ hội để trở thành một trong những cứ điểm sản xuất quan trọng của thế giới. Theo các chuyên gia, Việt Nam có ba lợi thế chính để tận dụng cơ hội này: môi trường đầu tư kinh doanh ổn định và thông thoáng; lực lượng lao động trẻ và cạnh tranh; chính sách khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường.
Những yếu tố này sẽ giúp Việt Nam có vai trò lớn hơn trong các GVC. Một khu vực sản xuất phát triển mạnh cũng sẽ tạo ra các lợi ích bổ sung, giúp các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội phát triển theo chiều sâu, tạo công ăn việc làm cho hơn 50 triệu lao động trong thập kỷ tới.
Trong thời kỳ thế giới đang chuyển mình ngày càng phức tạp, kết hợp các đối tác công nghệ cũng là cơ hội tạo đà phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Các công ty công nghệ cung cấp các giải pháp kỹ thuật giá cả phải chăng để đáp ứng nhu cầu phát triển, còn bản thân doanh nghiệp tập trung vào các khía cạnh đổi mới khác, bao gồm các ý tưởng mới, marketing và thúc đẩy giá trị gia tăng.
Ngoài ra, sự kết hợp giữa các công ty công nghệ và công ty công nghiệp góp phần thúc đẩy các sáng kiến và đề xuất giải pháp kỹ thuật mới, tạo ra những lời giải mới cho bài toán Make in Việt Nam. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần lưu tâm đến các hội thảo và nhóm thảo luận có sự tham gia của chính phủ, các nhà hoạch định chính sách.
Đây cũng là cơ hội đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông qua các cam kết bảo đảm, tạo môi trường thuận lợi và cải cách chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tài chính, đổi mới công nghệ và tiếp thị sản phẩm và dịch vụ. Chắc chắn, tất cả những điều này sẽ tạo ra một “môi trường kinh doanh thuận lợi” cho doanh nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, các giải pháp của doanh nghiệp góp phần xóa nhòa “bất bình đẳng công nghệ” cũng rất quan trọng. Công nghệ có thể dễ dàng tiếp cận đối với tầng lớp trung lưu hoặc cao hơn, nhưng khả năng tiếp cận giảm đáng kể khi tiếp cận các tầng lớp thấp hơn trong hệ thống phân cấp xã hội.
Theo Báo cáo Cổ tức Kỹ thuật số của Ngân hàng Thế giới (WB), đào tạo kỹ năng và tạo dựng giải pháp tiếp cận công nghệ cho số đông người dân sẽ giúp các doanh nghiệp công nghệ số thu được lợi ích tốt hơn từ việc sử dụng và phát triển công nghệ.
Giữa những thách thức mới, thế giới ngày nay cần những con đường mới, những quyết tâm mới. Make in Việt Nam không chỉ là câu chuyện của Việt Nam, mà còn là sự hợp tác cần thiết trên mọi lĩnh vực tại bình diện quốc tế. Đây là con đường dẫn đến một tương lai tốt đẹp hơn cho doanh nghiệp Việt Nam và thương hiệu quốc gia Việt Nam.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm