Thị trường hàng hóa
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Hiệp định RCEP) là một hiệp định thương mại tự do giữa 10 quốc gia thành viên của ASEAN và 5 nền kinh tế lớn khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, và Australia) đã trở thành hiện thực sau gần 8 năm đàm phán cam go. Cho đến nay, RCEP là khối thương mại lớn nhất thế giới, chiếm gần 26,2% GDP thế giới, 29,5% xuất khẩu hàng hóa thế giới và 25,9% nhập khẩu hàng hóa thế giới.
Hiệp định RCEP có ý nghĩa quan trọng đối với ngành dệt may (T&A). Theo số liệu thống kê từ Liên hợp quốc, trong năm 2019, 15 thành viên RCEP đã xuất khẩu toàn bộ T&A trị giá 374 tỷ USD (tương đương 50% thị phần thế giới) và nhập khẩu 139 tỷ USD (tương đương 20% thị phần thế giới).
Đặc biệt, các thành viên RCEP đóng vai trò là cơ sở cung ứng hàng may mặc quan trọng cho nhiều thương hiệu thời trang của Mỹ và EU. Ví dụ, vào năm 2019, gần 60% nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ đến từ các thành viên RCEP, tăng từ 45% vào năm 2005. Tương tự như vậy, vào năm 2019, 32% nhập khẩu hàng may mặc của EU cũng đến từ các thành viên RCEP, tăng từ 28,1% năm 2005.
Đáng chú ý, các thành viên RCEP đã và đang phát triển và hình thành chuỗi cung ứng hàng dệt may trong khu vực. Các thành viên RCEP có nền kinh tế tiên tiến hơn (như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc) cung cấp nguyên phụ liệu dệt may cho các quốc gia kinh tế kém phát triển hơn trong khu vực trong chuỗi cung ứng khu vực này. Dựa trên mức lương tương đối thấp hơn, các nước kém phát triển hơn thường thực hiện các quy trình sản xuất hàng may mặc sử dụng nhiều lao động nhất và sau đó xuất khẩu hàng may mặc thành phẩm sang các thị trường tiêu thụ lớn trên toàn thế giới.
Để phản ánh chuỗi cung ứng khu vực ngày càng tích hợp hơn, vào năm 2019, có tới 72,8% hàng dệt may nhập khẩu của các thành viên RCEP đến từ các thành viên RCEP khác, tăng đáng kể so với chỉ 57,6% năm 2005. Gần 40% hàng dệt may của các thành viên RCEP xuất khẩu cũng đến các thành viên RCEP khác trong năm 2019, tăng từ 31,9% năm 2005.
Thứ nhất, các thành viên RCEP đã cam kết giảm thuế suất xuống 0 đối với hầu hết hàng dệt may được giao dịch giữa các thành viên RCEP vào ngày đầu tiên sau khi hiệp định có hiệu lực. Tuy nhiên, lộ trình loại bỏ thuế quan chi tiết đối với hàng dệt may theo RCEP là rất phức tạp. Mỗi thành viên RCEP đặt ra lịch trình loại bỏ thuế quan của riêng mình, có thể kéo dài hơn 20 năm (ví dụ: 34 năm đối với Hàn Quốc và 21 năm đối với Nhật Bản.)
Ngoài ra, khác với các hiệp định thương mại tự do dựa trên Mỹ hoặc EU, lịch trình loại bỏ của RCEP là quốc gia cụ thể. Ví dụ, Hàn Quốc đặt ra các lịch trình loại bỏ thuế quan khác nhau đối với các sản phẩm dệt may từ ASEAN, Trung Quốc, Australia, Nhật Bản và New Zealand. Việc cắt giảm thuế quan của Nhật Bản đối với các sản phẩm may mặc rộng rãi hơn đối với các thành viên ASEAN và ít hơn đối với Trung Quốc và Hàn Quốc. Các công ty quan tâm đến việc tận dụng các lợi ích miễn thuế theo RCEP cần phải nghiên cứu chi tiết “luật chơi”.
Thứ hai, nói chung, RCEP áp dụng các quy tắc xuất xứ rất tự do cho các sản phẩm may mặc. Nó chỉ yêu cầu rằng tất cả các nguyên liệu không có xuất xứ được sử dụng để sản xuất hàng hóa phải trải qua sự chuyển đổi thuế quan ở cấp mã HS 2 chữ số (giả sử thay đổi từ bất kỳ chương nào từ chương 50-60 đến chương 61). Nói cách khác, các thành viên RCEP được phép tìm nguồn sợi và vải từ mọi nơi trên thế giới, và các sản phẩm may mặc thành phẩm vẫn đủ điều kiện để được hưởng các quyền lợi miễn thuế. Hầu hết các nhà máy may mặc ở các nước thành viên RCEP có thể hưởng ngay các lợi ích RCEP mà không cần điều chỉnh chuỗi cung ứng hiện tại của họ.
Một mặt, việc thực hiện RCEP có khả năng tăng cường hơn nữa chuỗi cung ứng hàng dệt may trong khu vực giữa các thành viên RCEP. Đặc biệt, RCEP có thể sẽ củng cố Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc trở thành các nhà cung cấp hàng dệt may chính cho chuỗi cung ứng T&A khu vực. Trong khi đó, RCEP cũng sẽ mở rộng vai trò của ASEAN với tư cách là nhà sản xuất hàng may mặc hàng đầu trong khu vực.
Mặt khác, với tư cách là một khối thương mại, RCEP có thể gây khó khăn hơn cho các thành viên không phải là thành viên RCEP trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng hàng dệt may trong khu vực do các thành viên RCEP hình thành. Do toàn bộ chuỗi cung ứng hàng dệt may trong khu vực đã tồn tại giữa các thành viên RCEP, cộng với yếu tố tốc độ tiếp cận thị trường, nên rất ít ưu đãi dành cho các thành viên RCEP để hợp tác với các nhà cung cấp bên ngoài khu vực trong sản xuất hàng dệt may.
Việc xóa bỏ thuế quan theo RCEP sẽ khiến các nhà sản xuất hàng dệt may không phải là thành viên của hiệp định gặp bất lợi đáng kể hơn trong cuộc cạnh tranh. Không có gì đáng ngạc nhiên, theo một nghiên cứu gần đây, tính theo giá trị, chỉ khoảng 21,5% hàng dệt may nhập khẩu của các thành viên RCEP sẽ đến từ bên ngoài khu vực sau khi thực hiện hiệp định, giảm so với mức 29,9% của năm cơ sở vào năm 2015.
Hơn nữa, việc đạt được RCEP có thể đẩy nhanh quá trình đàm phán các hiệp định thương mại khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chẳng hạn như Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc - Hàn Quốc - Nhật Bản. Áp lực ngày càng tăng đối với chính quyền Biden trong việc tăng cường quan hệ kinh tế của Mỹ với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cạnh tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực cũng có thể gia tăng khi tác động tổng hợp của RCEP và CPTPP bắt đầu hình thành chuỗi cung ứng mới và kiểm tra tác động của hai nước đối với mô hình thương mại khu vực.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm