Thị trường hàng hóa
Tuy nhiên, đến nay, quan niệm hoàn thiện phải gồm có các hệ thống thực - số được đảm bảo vận hành trên hạ tầng thông tin thống nhất, dùng chung và được tích hợp một cách hữu cơ vào hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội của đô thị để trở thành một thực thể thông minh hơn, hiệu quả hơn.
Và khi nói đến hệ thống thực – số không thể không nói đến vấn đề ứng dụng công nghệ và dữ liệu lớn. Để rõ hơn một phần điều này, chuyên gia TS.KTS. Lưu Đức Minh, Phó Giám đốc Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị (AMC) và ThS. Nguyễn Huy Dũng, Viện Quy hoạch Môi trường, hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn (MTHTKT ĐT&NT) đã có những phân tích sâu sắc, đồng thời, nêu ra các đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ phát triển, vận hành các ĐTTM/TPTM trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
Theo đó, khi nói về vai trò to lớn của việc ứng dụng các công nghệ trong công tác quy hoạch và phát triển đô thị, TS.KTS. Lưu Đức Minh đã nhấn mạnh đến các văn bản quan trọng mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã ban hành, chỉ đạo thời gian qua như: Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị với mục tiêu tổng quát muốn hiện đại hóa đất nước cần phát triển nhanh, bền vững dựa cần trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị…
“Đặc biệt, trong công tác quy hoạch, quản lý và phát triển đô thị cần mạnh mẽ thực hiện việc: Chuyển đổi số (CĐS); ứng dụng công nghệ, nền tảng số; cung cấp các tiện ích ĐTTM; áp dụng Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh; xây dựng hệ thống hạ tầng dữ liệu không gian đô thị; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý vận hành ĐTTM/TPTM; doanh nghiệp số…”, TS.KTS. Lưu Đức Minh nhấn mạnh.
Cũng theo TS.KTS. Lưu Đức Minh, CĐS giờ đây chính là con đường để tiếp nhận các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 và quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị chính là chìa khoá, giải pháp để phát triển ĐTTM/TPTM bền vững.
Hơn nữa, các nền tảng số, nền tảng CNTT cũng chính là một biểu hiện tích cực trong công tác thực hiện CĐS ngành xây dựng. Và để làm tốt nhiệm vụ này, ngành xây dựng cần thực hiện mô hình phát triển tổng thể dựa trên 05 lớp gồm: Hệ sinh thái tự nhiên (quy hoạch, xây dựng, phát triển theo hướng tự nhiên); hạ tầng kỹ thuật đô thị (quy hoạch, xây dựng vận hành tự động trên nền tảng số); không gian đô thị (phát triển đa chức năng có khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu); hạ tầng số (kết nối thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL), tự động hoá); hạ tầng dịch vụ (hình thành các loại hình dịch vụ thông minh).
Tuy nhiên, để có thể phát triển ĐTTM theo đúng nghĩa, các khía cạnh phát triển ĐTTM phải dựa trên thành tựu CMCN 4.0, nhất là cần áp dụng thông qua các sáng kiến dựa trên cơ sở nền tảng CNTT và các thiết bị di động kết nối với Internet.
“Ngoài ra, cũng cần yếu tố hạ tầng thông tin, hạ tầng số mạnh mẽ và an toàn. Hạ tầng thông tin này kết nối tất cả các chủ thể trong đô thị với nhau, thu thập và xử lý một khối lượng rất lớn dữ liệu từ các hệ thống quan trắc, từ hoạt động hàng ngày của các chủ thể giúp cho đô thị vận hành một cách hiệu quả”, TS.KTS. Lưu Đức Minh nêu quan điểm.
Ở quan điểm khác, khi nói về việc ứng dụng công nghệ trong quy hoạch và phát triển đô thị tại các địa phương, ThS. Nguyễn Huy Dũng, Viện MTHTKT ĐT&NT nhấn mạnh đến sự cần thiết phải nhanh thiết lập, hoàn thiện CSDL ngành xây dựng dựa trên việc sử dụng: Bản đồ nền WebMap; hệ thống ứng dụng phân hệ cơ bản; khung pháp lý vận hành; đổi mới quy trình, nghiệp vụ quản lý Nhà nước …
Cùng với đó, các địa phương cần triển khai xây dựng CSDL và hệ thống ứng dụng phục vụ quản lý Nhà nước trong xây dựng và phát triển đô thị, bao gồm: chuyển đổi quy trình nghiệp vụ, số hóa và xây dựng CSDL ngành Xây dựng - đảm bảo khả năng tích hợp vào hệ thống hạ tầng dữ liệu không gian địa lý, kết nối liên thông với CSDL đất đai, tài nguyên và môi trường với các CSDL chuyên ngành khác, dần hình thành hệ thống CSDL đô thị liên thông trên nền hệ thống thông tin (GIS).
Điều ThS. Nguyễn Huy Dũng, Viện MTHTKT ĐT&NT còn lưu ý thêm, trong quá trình ứng dụng, sử dụng các công nghệ số, nền tảng số cần đảm bảo theo nguyên tắc không trùng lặp, cập nhật, kết nối, chia sẻ với các CSDL cấp tỉnh, kết nối ngành dọc với Bộ Xây dựng theo yêu cầu và thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP).
“Trên cơ sở nền tảng CSDL đó, hệ thống ứng dụng phục vụ quản lý Nhà
nước trong xây dựng và phát triển đô thị được thiết lập. Số lượng, loại hình hệ thống ứng dụng là không giới hạn, song trước mắt tập trung vào bộ ứng dụng khai thác thông tin, cung cấp thông tin công khai, lấy ý kiến cộng đồng, phản ánh của cộng đồng”, ThS. Nguyễn Huy Dũng phân tích.
Cũng theo ThS. Nguyễn Huy Dũng, giờ đây, việc quản lý các ĐTTM/TPTM cũng cần phải tập trung, áp dụng các công cụ: Quản lý tích hợp công nghệ 3D, viễn thám; tích hợp thông tin pháp lý đối với công tác quản lý dân cư, đất đai, giao thông và các dịch vụ công trong đô thị; cải cách hành chính, hiện đại hóa và đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Nói thêm về vai trò quan trọng của GIS, ThS. Nguyễn Huy Dũng cho biết đây là công nghệ tối ưu giúp công tác quy hoạch đạt hiệu quả vận hành trên hạ tầng dữ liệu không gian quy hoạch, quản lý phát triển đô thị, quản lý và vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật.
“GIS còn giúp tạo ra giá trị, lợi ích tối ưu về lưu trữ, quản lý khai thác các thông tin điều tra cơ bản (bao gồm dữ liệu đo đạc bản đồ, hồ sơ quy hoạch đô thị về không gian, sử dụng đất, hiện trạng, quy hoạch và vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật)”, ThS. Nguyễn Huy Dũng phân tích, nêu ưu điểm.
Khi nêu ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ phát triển, vận hành các ĐTTM/TPTM hiện nay, TS.KTS. Lưu Đức Minh đề xuất ngành xây dựng cần CĐS mạnh mẽ và thiết lập, hoàn thiện hơn nữa các nền tảng dữ liệu ngành.
Đặc biệt, ngành xây dựng cần hoàn thiện Hệ thống quản lý quy hoạch và phát triển đô thị, cần thiết có thể triển khai thực hiện dựa trên 03 giai đoạn: Giai đoạn 1 (triển khai ứng dụng và CSDL như quản lý, công khai thông tin quy hoạch đô thị, quản lý hồ sơ quy hoạch); giai đoạn 2 (triển khai ứng dụng và CSDL về quản lý cấp phép, hỗ trợ thẩm định quy hoạch, thanh kiểm tra, theo dõi, giám sát thực hiện quy hoạch, triển khai ứng dụng và CSDL quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị mà trước hết cho thành phố, tỉnh); giai đoạn 3 triển khai ứng dụng và CSDL quản lý các lĩnh vực còn lại và mở rộng toàn bộ hệ thống đô thị và triển khai toàn diện đô thị và nông thôn.
Đồng tình cao với các quan điểm, đề xuất của TS.KTS. Lưu Đức Minh, ThS. Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh thêm, giai đoạn 3 rất quan trọng, vì khi làm tốt sẽ tạo ra: cơ chế vận hành; cơ chế thực hiện; phân định quyền và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan - đặc biệt là sự phối kết hợp hiệu quả có ý nghĩa then chốt trong việc thực hiện thành công mục tiêu đề ra.
“Vì vậy, các địa phương cần xây dựng cho mình một cơ chế thực hiện từ việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng CSDL ngành xây dựng trên địa bàn địa phương nói chung, đến quy chế thực hiện từng lĩnh vực chuyên ngành”, ThS. Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh./.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm