Thị trường hàng hóa
Việc Tổng cục Thống kê công bố CPI trung bình 6 tháng đầu năm 2022 chỉ tăng 2,44% trong khi giá cả nhiều mặt hàng tăng mạnh khiến không ít người dân, chuyên gia cho đến nay vẫn nghi ngờ tính chuẩn xác trong phương pháp tính CPI tại Việt Nam. Tại hội thảo do Viện Kinh tế tài chính tổ chức hồi tháng 7, Chủ tịch Hội Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam Nguyễn Mạnh Hùng thẳng thắn nêu rằng, CPI 6 tháng tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước không phản ánh đúng giá cả thực tế. Ông Hùng lo lắng, khi con số thống kê không đúng, không sát thực tế, không phản ánh đúng giá cả đời sống hiện tại, không có giá trị tham khảo và không giúp nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết sách phù hợp. Cùng quan điểm, một số ý kiến cho rằng, cần xem lại cách tính CPI để đảm bảo tính đúng và giúp nhà hoạch định chính sách xây dựng một kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn, sát hơn.
Trước những nghi ngờ của dư luận, Tổng cục Thống kê và các cơ quan liên quan cần tiếp tục tạo nên sự thấu hiểu và niềm tin cho người dân về CPI - một trong những chỉ số vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế. |
Vậy phương pháp tính CPI của Việt Nam là như thế nào và vì sao CPI của Việt Nam thấp? Đây là hai vấn đề cần được tiếp tục làm rõ để tạo nên sự thấu hiểu và niềm tin cho người dân về CPI - một trong những chỉ số vĩ mô quan trọng của nền kinh tế nước ta.
Tổng cục Thống kê khẳng định, Việt Nam biên soạn CPI theo thông lệ quốc tế. Theo đó, Tổng cục Thống kê triển khai xác định Danh mục hàng hóa đại diện, gồm các loại hàng hóa là sản phẩm vật chất và dịch vụ tiêu dùng phổ biến cho sinh hoạt hàng ngày của người dân trong một giai đoạn nhất định. Danh mục này được sử dụng để thu thập thông tin phản ánh biến động về giá của các hàng hóa đại diện cho tiêu dùng cuối cùng của dân cư. Thời kỳ 2020-2025 danh mục CPI bao gồm 752 mặt hàng. Cùng với đó, là xác định quyền số tính CPI của các nhóm hàng hóa trong Danh mục hàng hóa đại diện. Đó là tỷ trọng chi tiêu của các nhóm hàng hóa (vật chất và dịch vụ) trong tổng chi tiêu của dân cư.
Tổng cục Thống kê cho biết, tỷ trọng chi tiêu của các nhóm hàng hoá trong tổng chi tiêu của dân cư thường thay đổi theo thời gian. Hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng nhiều hơn sẽ chiếm tỷ trọng cao trong danh mục hàng hóa tính CPI.
Như vậy, chỉ tiêu CPI không chỉ phụ thuộc vào mức độ biến động về giá của các loại hàng hóa đại diện mà còn phụ thuộc vào Danh mục hàng hóa đại diện và Quyền số của các nhóm hàng hóa đại diện.
Hàng tháng, 63 địa phương tổ chức thu thập giá các mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện theo 3 kỳ. Toàn quốc có khoảng 40.000 điểm điều tra giá với địa điểm kinh doanh ổn định, thuộc các loại hình kinh tế.
Hiện nay, Tổng cục Thống kê đã triển khai điều tra giá tiêu dùng bằng thiết bị điện tử CAPI tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giúp nâng cao chất lượng số liệu điều tra, minh bạch quá trình điều tra, rút ngắn thời gian sản xuất số liệu và tiến tới hội nhập với thống kê thế giới.
Do quyền số hàng hóa, dịch vụ trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI ở mỗi nước khác nhau, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trình độ kinh tế, thu nhập của người dân, chi tiêu của người tiêu dùng rất khác nhau, nên cùng một phương pháp tính, nhưng lạm phát ở tại EU, Hoa Kỳ, Anh quốc... cao, còn Việt Nam thấp là hoàn toàn lý giải được.
Trao đổi với báo chí, bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá, Tổng cục Thống kê khẳng định, cách tính lạm phát của Việt Nam hoàn toàn chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tổng cục Thống kê áp dụng phương pháp tính CPI từ năm 1995, cho đến nay vẫn theo đúng thông lệ quốc tế và chuẩn mực tính lạm phát của các định chế tài chính quốc tế. Sự khác biệt chỉ là ở quyền số hàng hóa, dịch vụ trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI ở mỗi nước khác nhau. Quyền số này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trình độ kinh tế, thu nhập của người dân, chi tiêu của người tiêu dùng và chính sách điều hành nền kinh tế của các quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
Để tính toán được sự biến động của từng mặt hàng, Tổng cục Thống kê đã tổ chức thu thập giá cả, hàng hóa dịch vụ giao dịch thực tế trên thị trường tại 40.000 địa điểm kinh doanh ổn định thuộc mọi loại hình kinh tế trên khắp địa bàn cả nước. Để khách quan hơn, hàng năm, Tổng cục đều đề nghị Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cử chuyên gia đến Việt Nam rà soát, đánh giá nguồn thông tin, phương pháp tính, mặt hàng đại diện, quyền số từng nhóm hàng hóa trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI theo đúng tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. “Vì vậy, một lần nữa tôi khẳng định, sự biến động của CPI nói chung, của từng loại hàng hóa, dịch vụ nói riêng do Tổng cục Thống kê thu thập, tính toán và công bố hoàn toàn chính xác, phản ánh đúng diễn biến của thị trường”, bà Thu Oanh nói.
Cũng theo bà Thu Oanh, nhiều người cho rằng, giá trên thị trường cao hơn thực tế chủ yếu là do cảm quan và cũng chỉ có một số rất ít loại hàng hóa nào đó tăng rất cao, nhưng trong rổ tính CPI lại không chỉ đích danh loại hàng hóa đó.
Giá cả tăng là hiện tượng toàn cầu, nhưng do sự khác biệt trong quyền số tính CPI và chính sách điều hành nền kinh tế ở từng quốc gia, nên không phải ở đâu lạm phát cũng giống nhau. |
Lạm phát của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022 không tăng cao như một số quốc gia khác trên thế giới, do 6 nguyên nhân.
Thứ nhất, nhóm hàng ăn uống tại Việt Nam chiếm quyền số 27,68%. Khác với nhiều nước, Việt Nam là quốc gia có nguồn cung ứng các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi dào, bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân còn xuất khẩu ra thế giới nên giá cả khá ổn định. Giá các mặt hàng thực phẩm 6 tháng đầu năm giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,08 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 20,12%; giá nội tạng động vật giảm 9,52%; giá thịt chế biến giảm 3,89%.
Thứ hai, giá dịch vụ y tế và giáo dục không tăng, thậm chí còn giảm trong suốt 2 năm qua theo chủ trương của Chính phủ để hỗ trợ người dân trong bối cảnh đại dịch. Giá dịch vụ giáo dục giảm 3,56% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022, làm CPI chung giảm 0,19 điểm phần trăm.
Thứ ba, giá xăng dầu, gas chiếm quyền số thấp trong rổ tính CPI tại Việt Nam, nên nếu các mặt hàng này tăng giá 10% chỉ làm CPI tăng 0,36 điểm phần trăm. 6 tháng đầu năm nay, công tác điều hành giá xăng dầu theo sát diễn biến giá thế giới, nguồn cung xăng dầu được chỉ đạo khắc phục kịp thời. Các địa phương tăng cường quản lý giá trên địa bàn, nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia chương trình bình ổn giá.
Thứ tư, khác với các nước như Mỹ, châu Âu, Việt Nam hỗ trợ trực tiếp (phát tiền mặt) cho người dân đợt dịch Covid-19 rất thấp.
Thứ năm, giá nhiều nguyên liệu đầu vào nhập khẩu tăng giá, nhưng Việt Nam lại xuất khẩu đi nên ảnh hưởng bởi nhập khẩu lạm phát không cao.
Nguyên nhân cuối cùng, 6 tháng đầu năm 2022, cung tiền đưa ra thị trường thấp do Nhà nước điều hành thận trọng cả chính sách tài khóa (đầu tư công giải ngân còn chậm) và chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước không nới room tín dụng, giữ ở mức 14% cho cả năm 2022). Cùng với đó, một số chính sách, giải pháp đã được ban hành cũng góp phần giảm áp lực lên mặt bằng giá, như ổn định lãi suất cho vay ở mức thấp, giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/02/2022; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 01/01 đến hết 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022.
Do sự khác biệt trong quyền số tính CPI và chính sách điều hành nền kinh tế ở từng quốc gia, nên giá cả tăng là hiện tượng toàn cầu, nhưng không phải ở đâu lạm phát cũng giống nhau./.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm