Thị trường hàng hóa
Diễn đàn nhằm kết nối các nhà sản xuất nhôm trên cả nước, mang đến cái nhìn tổng thể về ngành nhôm hiện nay, nhận diện cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp, tham khảo khuyến nghị từ các chuyên gia, từ đó thảo luận, đưa ra giải pháp để hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp và ngành nhôm Việt Nam trong thời gian tới.
Sự kiện thu hút gần 200 đại biểu tham dự gồm các chuyên gia, đại diện cơ quan quản lý, các cơ quan thông tấn báo chí và lãnh đạo các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong hệ sinh thái ngành nhôm cả nước.
Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn, ông Nguyễn Minh Kế, Chủ tịch Hội Nhôm thanh định hình Việt Nam, cho biết, hiện nay ngành nhôm Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Nhu cầu thị trường gần đây đã giảm mạnh khiến các nhà máy phải giảm công suất. Phần lớn doanh nghiệp sản xuất nhôm chỉ đang hoạt động ở mức xấp xỉ 30% công suất, dòng tiền cạn kiệt. Một số doanh nghiệp trong nước đang bán phá giá gây nhiễu loạn thị trường, khiến các doanh nghiệp ngành nhôm lại càng khó khăn.
“Do đó, rất cần có biện pháp giúp lành mạnh thị trường, tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nhôm Việt Nam để tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Hiệp hội tiếp tục kiến nghị giảm thuế xuất khẩu nhôm dạng thanh, que và hình. Đây là nhóm sản phẩm thế mạnh của nhôm Việt Nam hiện nay”, ông Kế nói.
Khó khăn thứ hai được Chủ tịch Hội Nhôm thanh định hình nêu lên là việc quyết định áp thuế chống bán phá giá sẽ hết hiệu lực từ tháng 10/2024, thời hạn nộp hồ sơ rà soát cuối kỳ đến tháng 9/2023. Theo ông Kế, các nhà sản xuất cần nhìn nhận vai trò của thuế chống bán phá giá đối với thị trường trong nước những năm qua. Các năm 2019-2020, việc áp thuế chống bán phá giá nhôm định hình xuất xứ từ Trung Quốc đã từng là sự cứu cánh cho các doanh nghiệp ngành nhôm Việt Nam trước bờ vực phá sản. Do đó, các nhà sản xuất cần xem xét lại tình hình hiện nay và thống nhất quan điểm với Hiệp hội để đề nghị Bộ Công Thương gia hạn quyết định thêm 5 năm.
Thách thức thứ ba là xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư sang ngành nhôm Việt Nam những năm gần đây rất rõ nét, chủ yếu là dòng vốn đến từ các nhà sản xuất nhôm Trung Quốc (điển hình là vụ việc Công ty Xingfa Quảng Đông) đang chuyển hướng đầu tư sản xuất tại Việt Nam.
Giai đoạn 2016-2018, nhôm Trung Quốc dư thừa sản lượng, tràn vào bán phá giá khiến doanh nghiệp nhôm Việt Nam lâm vào cảnh ngừng hoạt động, công nhân mất việc. Năm 2019, khi Bộ Công Thương áp thuế chống bán phá giá đối với nhôm định hình có xuất xứ từ Trung Quốc, cùng với sự vào cuộc của các cơ quan chống buôn lậu và gian lận thương mại, đã ngăn chặn được nhôm Trung Quốc bán phá giá vào Việt Nam.
“Vấn đề là sau khi bị áp thuế, các nhà sản xuất Trung Quốc đã tìm cách chuyển hướng đầu tư trực tiếp sang Việt Nam để tránh bị áp thuế. Đồng thời, việc chuyển cứ điểm sản xuất có thể giúp nhôm Trung Quốc tận dụng được các ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại mà nhôm Việt Nam đang được hưởng, nhằm tránh các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước như Mỹ, EU, Anh… Điều này, sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu của các nhà máy nhôm Việt Nam. Các đơn vị lại thêm lần nữa đối mặt với nguy cơ mất đi thị trường trong nước lần 2 như những năm 2018-2019 trước khi áp thuế chống bán phá giá; đồng thời đối mặt với rủi ro bị điều tra/áp thuế lẩn tránh phòng vệ thương mại khi nhôm Việt xuất khẩu sang EU, Mỹ…”, ông Kế phân tích.
Trong khi đó, ông Vũ Văn Phụ - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Nhôm thanh định hình Việt Nam đặc biệt lưu ý các doanh nghiệp trong ngành về tình trạng dư thừa công suất. Hiện nay, tính tổng thể trong lĩnh vực nhôm, có khoảng 100 nhà máy, chủ yếu là sản xuất nhôm định hình. Năng lực sản xuất nhôm tăng mạnh, khoảng trên 1,2 triệu tấn/năm, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại là trong vài năm gần đây, công suất của ngành nhôm đã bắt đầu có dấu hiệu dư thừa. Theo đó, sản lượng của phần lớn các nhà máy chỉ đạt 70% công suất thiết kế, sản phẩm thành phẩm nhôm sản xuất ra đã vượt quá nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến quý 1 năm nay, doanh nghiệp nhôm hầu hết đều lao đao.
“Phần lớn các nhà máy sản xuất nhôm chỉ hoạt động ở mức 30 - 40% công suất. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp nhôm gặp rất nhiều khó khăn, hầu như không có doanh thu hoặc doanh thu rất thấp, dòng tiền khó khăn, chủ yếu chỉ cố gắng duy trì sản xuất để giữ việc làm cho người lao động”, ông Phụ cho hay.
Để khắc phục tình trạng này và tái cơ cấu ngành nhôm theo hướng phát triển bền vững, ông Phụ kiến nghị cần xem xét quy hoạch tổng thể ngành nhôm, sản xuất nhôm nguyên chất và tăng cường tái chế nhôm, tiếp cận nguyên liệu “xanh”. Các bộ, ngành và cơ quan chức năng sớm nghiên cứu xây dựng quy hoạch chính sách phát triển ngành; duy trì có hiệu quả biện pháp phòng vệ thương mại trong nước. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần xem xét cẩn trọng việc cấp phép cho các dự án đầu tư có vốn FDI vào lĩnh vực nhôm tại Việt Nam, đồng thời xem xét có các chính sách giảm thuế xuất khẩu nhôm, hỗ trợ các doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường xuất khẩu để vượt qua được giai đoạn khó khăn hiện nay.
Cũng tại Diễn đàn, các chuyên gia và đại diện các doanh nghiệp đều thống nhất trong bối cảnh kinh tế đa suy thoái, ngành nhôm Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề khó khăn, thách thức lớn cần được giải quyết, do đó rất cần có các giải pháp mang tính tổng thể để khắc phục các vấn đề tồn tại, cơ cấu lại ngành và có chiến lược phát triển bền vững trong thời gian tới. Tại phiên thảo luận, các doanh nghiệp và các chuyên gia đã cùng tập trung thảo luận nhằm đưa ra giải pháp, để hạn chế rủi ro cho ngành nhôm và doanh nghiệp trong thời gian tới.
Theo bà Phạm Châu Giang - Chuyên gia cao cấp Quỹ VinaCapital, ngành nhôm Việt Nam vẫn còn dư địa phát triển. Thực tế không phải bây giờ ngành mới gặp khó khăn, mà giai đoạn trước đây đã từng có thời điểm còn khó khăn hơn rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn vượt qua được. Hiện nay, ngành nhôm có lợi thế là hầu như vẫn chỉ có các doanh nghiệp trong nước sản xuất, hầu như chưa phải cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, vì các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực này còn hạn chế. Do đó, theo bà Giang, các doanh nghiệp nhôm cần tận dụng phát huy tối đa lợi thế này, để liên kết cùng nhau sản xuất cung ứng cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần xem xét, nghiên cứu để có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu và cùng hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển ngành vững mạnh trong giai đoạn 10 năm tới.
Tuy nhiên, bà Giang cũng lưu ý điểm hạn chế của ngành nhôm Việt Nam hiện nay là sản phẩm khá giống nhau và tập trung chủ yếu vào sản phẩm nhôm thanh định hình. Vì vậy, các doanh nghiệp ngành nhôm cần đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với các nhu cầu sử dụng khác nhau, để có thể tăng khả năng cung ứng cho thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành.
Từ góc độ cơ quan quản lý nhà nước, ông Chu Thắng Trung - Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương lưu ý, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh liên kết để tận dụng lợi thế của chuỗi sản xuất nhằm tăng năng lực sản xuất cũng như giá trị gia tăng của sản phẩm, từ đó tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với các kiến nghị của Hiệp hội và các doanh nghiệp nhôm về duy trì biện pháp phòng vệ thương mại trong nước, ông Trung khẳng định không thể quyết định tuỳ tiện mà cần căn cứ vào kết quả điều tra của cơ quan chức năng và thông tin từ các doanh nghiệp ngành nhôm cung cấp. Do đó, các doanh nghiệp cần theo dõi và nắm bắt thông tin thực tế một cách chặt chẽ, để cùng phối hợp với cơ quan chức năng một cách hiệu quả./.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm