Thị trường hàng hóa
11 tháng đầu năm, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước
Cụ thể, chỉ số giá điện sinh hoạt, giá nhà ở thuê và vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,13% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng 11/2024 tăng 2,65% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,77%.
Bình quân 11 tháng năm 2024, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,7%.
Trong mức tăng 0,13% của CPI tháng 11/2024 so với tháng trước, có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.
Cụ thể, tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với mức tăng 0,87%, chủ yếu tăng ở một số mặt hàng sau: Giá dầu hỏa tăng 3,57% so với tháng trước do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá gas tăng 2,25% do từ ngày 01/11/2024, giá gas trong nước điều chỉnh tăng theo giá gas thế giới; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,62% do nhu cầu tăng vào dịp cuối năm; giá thuê nhà tăng 0,45% do giá mua bán nhà đất và chung cư tăng cao; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,28% do giá xi măng, giá thép tăng trong bối cảnh giá điện, than, bao bì tăng; giá điện sinh hoạt tăng 2,03% so với tháng trước do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024. Ở chiều ngược lại, giá nước sinh hoạt giảm 0,43% do đã chuyển sang thời tiết mùa đông nên nhu cầu tiêu dùng giảm.
Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,29%, trong đó: Giá đồ trang sức tăng 2,35% theo giá vàng trong nước; sửa chữa đồng hồ đeo tay tăng 0,12%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,1%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,07%.
Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,26%, chủ yếu do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống và tỷ giá đô la Mỹ tăng. Cụ thể: Giá nước quả ép tăng 0,52%; nước giải khát có ga tăng 0,45%; nước khoáng tăng 0,42%; thuốc hút tăng 0,33%; rượu các loại tăng 0,29%; bia các loại tăng 0,1%.
Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,21% do chi phí nhân công, chi phí vật liệu và nhu cầu mua sắm tăng khi thời tiết chuyển mùa. Trong đó, giá dịch vụ giày, dép tăng 0,5%; vải các loại tăng 0,41%; dịch vụ may mặc tăng 0,27%; quần áo may sẵn tăng 0,23%; mũ nón tăng 0,22%.
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,2%, tập trung chủ yếu ở những mặt hàng như báo các loại tăng 0,66%; xem phim, ca nhạc tăng 0,47%; cây, hoa cảnh tăng 0,41%; dịch vụ thể thao tăng 0,29%; đồ chơi trẻ em tăng 0,18%.
Nhóm giáo dục tăng 0,11%, trong đó giá dịch vụ giáo dục tăng 0,11% do một số trường mầm non tư thục, cao đẳng, nghề, trung cấp, đại học, sau đại học tăng học phí. Bên cạnh đó, Thái Nguyên và Đồng Tháp có chính sách miễn giảm học phí nhằm hỗ trợ cho người dân. Ngoài ra, giá sản phẩm từ giấy tăng 0,28%; giá văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,23%; giá bút viết tăng 0,18%.
Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08% do nhu cầu tiêu dùng tăng vào mùa cưới và thời tiết chuyển sang mùa đông. Trong đó, giá đồ nhựa và cao su tăng 0,51%; thuê đồ dùng trong gia đình tăng 0,49%; bếp gas tăng 0,32%; đồ điện khác và giường, tủ, bàn ghế cùng tăng 0,29%; bình nước nóng nhà tắm và trang thiết bị nhà bếp cùng tăng 0,23%; dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,18%; ổn áp điện tăng 0,14%; thuê người phục vụ tăng 0,11%; hàng dệt trong nhà tăng 0,1%; hàng thủy tinh, sành, sứ tăng 0,18%.
Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05% do thời tiết giao mùa, bệnh cảm cúm, đường hô hấp gia tăng nên nhu cầu tiêu dùng các loại thuốc về giảm đau, hạ sốt, đường hô hấp, vitamin và khoáng chất của người dân tăng. Trong đó, thuốc giảm đau, thuốc hạ sốt tăng 0,27%; thuốc đường tiêu hóa tăng 0,12%; thuốc tim mạch và thuốc vitamin và khoáng chất cùng tăng 0,07%.
Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
Nhóm giao thông giảm 0,07% do: Giá vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 11,04%; vận tải hành khách bằng đường sắt giảm 4,1% do nhu cầu của người dân giảm; giá xăng giảm 0,14% so với tháng trước; giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,13%; giá xe ô tô mới giảm 0,04%. Bên cạnh đó, có một số mặt hàng tăng giá: Giá dầu diezen tăng 2,96% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá dầu mỡ nhờn tăng 0,1%; giá sửa chữa xe máy tăng 1,03% so với tháng trước; sửa chữa xe đạp tăng 0,55%; phụ tùng khác của xe máy tăng 0,27%; lốp, săm xe máy tăng 0,25%; xe máy tăng 0,24%; lốp, săm xe đạp tăng 0,21%; phụ tùng khác của xe đạp tăng 0,15%; xe đạp tăng 0,14%.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,22%, trong đó: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng 0,33%; thực phẩm giảm 0,5% (góp phần làm CPI giảm 0,1 điểm phần trăm); nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,26%.
Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,3%, trong đó: Giá máy điện thoại di động thông thường giảm 0,99%; giá máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,46%; giá máy điện thoại cố định giảm 0,04%; phụ kiện máy điện thoại thông minh và máy tính bảng giảm 0,03%. Ở chiều ngược lại, giá sửa chữa điện thoại tăng 0,47% do chi phí nhân công tăng.
Lạm phát cơ bản tháng 11/2024 tăng 0,24% so với tháng trước và tăng 2,77% so với cùng kỳ năm trước.
Bình quân 11 tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,69%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Chỉ số giá vàng và giá đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 27/11/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.696,8 USD/ounce, tăng 0,12% so với tháng 10/2024. Đầu tháng 11/2024, giá vàng thế giới giảm đáng kể sau khi ứng cử viên Đảng cộng hòa Donald Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ do các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục và chờ đợi các chính sách kinh tế mới từ Tổng thống đắc cử. Tuy nhiên, đợt giảm này chỉ kéo dài trong thời gian ngắn, giá vàng nhanh chóng phục hồi trong các tuần sau đó do các yếu tố như căng thẳng địa chính trị và kỳ vọng về việc giảm lãi suất từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 2,26% so với tháng trước; tăng 32,91% so với tháng 12/2023 và tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 11 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,42%.
Tính đến ngày 27/11/2024, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 105,47 điểm, tăng 2,52% so với tháng trước do các kỳ vọng về chính sách tiền tệ của FED và dữ liệu kinh tế Mỹ tích cực, cùng với căng thẳng địa chính trị leo thang ở một số quốc gia đã làm tăng nhu cầu đối với đồng USD như một tài sản an toàn. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do dao động quanh mức 25.483 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2024 tăng 1,76% so với tháng trước; tăng 4,22% so với tháng 12/2023 và tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 11 tháng năm 2024 tăng 4,97%.
ĐANG HOT
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm