Thị trường hàng hóa
Bài viết dưới đây đề cập tới chủ đề này, nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh hướng tới phát triển bền vững - mục tiêu của nhiều nền kinh tế khi nhân loại phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong tương lai như biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học, bất bình đẳng ngày càng tăng.
Về cơ bản, các nền kinh tế là một tập hợp các quy tắc và chuẩn mực nhằm khuyến khích những hành vi tích cực và trừng phạt những hành vi đi ngược lại, ảnh hưởng tới quyền lợi chung của cộng đồng. Ở dạng hiện tại, các nền kinh tế đang khuyến khích tiêu dùng quá mức, làm suy giảm các mối quan hệ cộng đồng và phá hủy của cải tự nhiên. Điều này không phải là không thể tránh khỏi hoặc không thể tránh khỏi; nó chỉ đơn giản là cách các nền kinh tế đã phát triển để vận hành. Để giải quyết những vấn đề trên, cần phải có một tầm nhìn kinh tế mới. Đó là tầm nhìn về một tương lai kinh tế xanh, công bằng.
Nền kinh tế xanh là một sự thay đổi toàn cầu và mang tính chuyển đổi đối với hiện trạng toàn cầu. Nó đòi hỏi một sự thay đổi cơ bản trong các ưu tiên của chính phủ. Nhận thức được sự thay đổi này là không dễ dàng, nhưng lại cần thiết, nếu chúng ta muốn đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Tầm nhìn về nền kinh tế xanh là một nền kinh tế mang lại sự thịnh vượng cho tất cả trong giới hạn sinh thái của hành tinh. Nó tuân theo 5 nguyên tắc chính, mỗi nguyên tắc đều dựa trên những tiền lệ quan trọng trong chính sách quốc tế và cùng có thể hướng dẫn cải cách kinh tế trong các bối cảnh đa dạng.
Nền kinh tế xanh cho phép tất cả mọi người tạo ra và tận hưởng sự thịnh vượng. Nền kinh tế xanh lấy con người làm trung tâm. Mục đích của nó là tạo ra sự thịnh vượng chân chính, được chia sẻ. Tập trung vào việc gia tăng sự giàu có để hỗ trợ an sinh. Sự giàu có này không chỉ đơn thuần là tài chính, mà bao gồm đầy đủ các yếu tố con người, xã hội, vật chất và tự nhiên. Nó ưu tiên đầu tư và tiếp cận với các hệ thống tự nhiên bền vững, cơ sở hạ tầng, kiến thức và giáo dục cần thiết cho tất cả mọi người để thịnh vượng. Nó mang lại cơ hội cho sinh kế, doanh nghiệp và việc làm xanh và tốt. Nó được xây dựng dựa trên hành động tập thể cho hàng công, nhưng dựa trên sự lựa chọn của từng cá nhân.
2. Nguyên tắc công bằng
Nền kinh tế xanh thúc đẩy công bằng trong và giữa các thế hệ. Nó xanh mang tính bao trùm và không phân biệt đối xử. Chia sẻ việc ra quyết định, lợi ích và chi phí một cách công bằng và đặc biệt hỗ trợ trao quyền cho phụ nữ. Nó thúc đẩy sự phân bổ công bằng giữa cơ hội và kết quả, giảm sự chênh lệch giữa mọi người, đồng thời tạo đủ không gian cho động vật hoang dã và hoang dã.
Nguyên tắc công bằng còn mang tính dài hạn về kinh tế. Nó tạo ra sự giàu có và khả năng phục hồi phục vụ lợi ích của các công dân tương lai, đồng thời hành động khẩn cấp để giải quyết tình trạng nghèo đa chiều và bất công ngày nay. Nó dựa trên sự đoàn kết và công bằng xã hội, củng cố lòng tin và mối quan hệ xã hội, đồng thời ủng hộ quyền con người, quyền của người lao động, người dân tộc bản địa và dân tộc thiểu số và quyền phát triển bền vững. Nó thúc đẩy trao quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (MSME), doanh nghiệp xã hội và sinh kế bền vững. Nó tìm kiếm một quá trình chuyển đổi nhanh chóng và công bằng và trang trải các chi phí - không để ai bị bỏ lại phía sau, tạo điều kiện cho các nhóm dễ bị tổn thương trở thành tác nhân của quá trình chuyển đổi và đổi mới trong bảo trợ xã hội và đào tạo lại.
Nền kinh tế xanh bảo vệ, phục hồi và đầu tư vào thiên nhiên. Nền kinh tế xanh bao trùm công nhận và nuôi dưỡng các giá trị đa dạng của thiên nhiên - các giá trị chức năng của việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ làm nền tảng cho nền kinh tế, các giá trị văn hóa của thiên nhiên làm nền tảng cho xã hội và các giá trị sinh thái của thiên nhiên làm nền tảng cho tất cả cuộc sống. Nó thừa nhận khả năng thay thế hạn chế của vốn tự nhiên với các nguồn vốn khác, sử dụng nguyên tắc phòng ngừa để tránh mất vốn tự nhiên quan trọng và vi phạm các giới hạn sinh thái. Nó đầu tư vào việc bảo vệ, phát triển và phục hồi đa dạng sinh học, đất, nước, không khí và các hệ thống tự nhiên. Nó là sáng tạo trong việc quản lý các hệ thống tự nhiên, được thông báo bởi các đặc tính của chúng như tính tuần hoàn và phù hợp với sinh kế cộng đồng địa phương dựa trên đa dạng sinh học và hệ thống tự nhiên.
Nền kinh tế xanh hướng tới hỗ trợ tiêu dùng và sản xuất bền vững. Một nền kinh tế xanh bao trùm là carbon thấp, bảo tồn tài nguyên, đa dạng và tuần hoàn. Nó bao gồm các mô hình phát triển kinh tế mới nhằm giải quyết thách thức trong việc tạo ra sự thịnh vượng trong các ranh giới hành tinh. Nó thừa nhận rằng, cần phải có một sự thay đổi toàn cầu đáng kể để hạn chế tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên đến mức bền vững về mặt vật lý, nếu chúng ta vẫn ở trong ranh giới hành tinh. Nó công nhận "tầng xã hội" của mức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ cơ bản là điều cần thiết để đáp ứng sức khỏe và phẩm giá của con người, cũng như "mức tiêu dùng cao điểm" không thể chấp nhận được.
Nó điều chỉnh giá cả, trợ cấp và ưu đãi với chi phí thực sự cho xã hội, thông qua các cơ chế mà "người gây ô nhiễm trả tiền" và/hoặc nơi lợi ích tích lũy cho những người mang lại kết quả xanh bao trùm.
Nền kinh tế xanh được dẫn dắt bởi các thể chế tích hợp, có trách nhiệm và có khả năng phục hồi. Một nền kinh tế xanh bao trùm là dựa trên bằng chứng - các chuẩn mực và thể chế của nó là liên ngành, triển khai cả khoa học và kinh tế hợp lý cùng với kiến thức địa phương cho chiến lược thích ứng. Nó được hỗ trợ bởi các thể chế được tích hợp, hợp tác và chặt chẽ - theo chiều ngang giữa các ngành và theo chiều dọc giữa các cấp quản trị - và có đủ năng lực để đáp ứng các vai trò tương ứng của họ theo những cách hiệu quả, hiệu quả và có trách nhiệm Nó đòi hỏi sự tham gia của công chúng, sự đồng ý được thông báo trước, tính minh bạch, đối thoại xã hội, trách nhiệm giải trình dân chủ và tự do khỏi các lợi ích được giao trong tất cả các thể chế - công cộng, tư nhân và xã hội dân sự - để sự lãnh đạo khai sáng được bổ sung bởi nhu cầu xã hội.
Nguyên tắc quản trị tốt còn thúc đẩy việc ra quyết định có tính quyết định cho các nền kinh tế địa phương và quản lý các hệ thống tự nhiên trong khi vẫn duy trì các tiêu chuẩn, thủ tục và hệ thống tuân thủ chung, tập trung mạnh mẽ. Nó xây dựng một hệ thống tài chính với mục đích mang lại sự an lành và bền vững, được thiết lập theo những cách thức phục vụ an toàn lợi ích của xã hội.
Sử dụng công nghệ thích hợp là công nghệ có thể thích ứng với địa phương, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên và phù hợp với văn hóa. Nó liên quan chủ yếu đến nguồn lực địa phương và lao động địa phương. Các công nghệ bản địa hữu ích hơn, tiết kiệm chi phí và bền vững hơn. Thiên nhiên thường được lấy làm mẫu, sử dụng các điều kiện tự nhiên của vùng đó làm thành phần của nó. Khái niệm này được gọi là "thiết kế phù với thiên nhiên". Công nghệ này nên sử dụng ít tài nguyên hơn và tạo ra chất thải tối thiểu.
Cách tiếp cận 3-R (Reduce, Reuse, and Recycle) ủng hộ việc giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên, sử dụng chúng lặp đi lặp lại thay vì chuyển nó vào dòng chất thải và tái chế vật liệu đi một chặng đường dài trong việc đạt được các mục tiêu bền vững. Nó làm giảm áp lực lên nguồn tài nguyên của chúng ta cũng như giảm phát sinh chất thải và ô nhiễm.
Làm cho giáo dục môi trường trở thành trung tâm của tất cả quá trình học tập sẽ giúp rất nhiều trong việc thay đổi khuôn mẫu tư duy và thái độ của con người đối với trái đất và môi trường sống. Việc giới thiệu môn học ngay từ bậc phổ thông sẽ khắc sâu trong tâm trí các em nhỏ về cảm giác thân thuộc với trái đất. 'Tư duy trái đất' sẽ dần dần được kết hợp trong suy nghĩ và hành động, điều này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc chuyển đổi lối sống của con người sang lối sống bền vững.
Bất kỳ hệ thống nào cũng có thể duy trì một số lượng giới hạn các sinh vật trên cơ sở lâu dài được gọi là khả năng chịu đựng (carrying capacity). Khả năng chịu đựng của một môi trường là kích thước quần thể tối đa của một loài sinh vật có thể được duy trì trong môi trường cụ thể đó, do thức ăn, môi trường sống, nước và các tài nguyên khác có sẵn mang theo. Đối với con người, khái niệm khả năng chịu đựng có phần phức tạp hơn. Đó là vì không giống như các loài động vật khác, con người không chỉ cần thức ăn để sống, mà còn cần rất nhiều thứ khác để duy trì chất lượng cuộc sống. Tính bền vững của một hệ thống phụ thuộc phần lớn vào khả năng chịu đựng của hệ thống. Nếu khả năng chịu đựng của một hệ thống bị vượt qua (ví dụ, do khai thác quá mức tài nguyên), thì suy thoái môi trường sẽ diễn ra và tiếp tục cho đến khi nó đạt đến điểm không thể tái quay trở lại.
Khả năng chịu đựng có hai thành phần cơ bản là khả năng hỗ trợ, tức là khả năng tái tạo và hai là khả năng đồng hóa tức là khả năng chịu đựng các hoàn cảnh khác nhau. Để đạt được tính bền vững, điều rất quan trọng là phải sử dụng các nguồn lực dựa trên hai đặc tính trên của hệ thống. Mức tiêu thụ không được vượt quá khả năng tái sinh và không được phép xảy ra các thay đổi vượt quá khả năng chịu đựng của hệ thống.
Sự phát triển không nên chỉ tập trung vào một bộ phận những người khá giả. Thay vào đó, nó nên bao gồm việc chia sẻ lợi ích giữa người giàu và người nghèo. Các bộ lạc, dân tộc và di sản văn hóa của họ cũng cần được bảo tồn. Chính sách và thực tiễn cần có sự tham gia mạnh mẽ của cộng đồng và tăng trưởng dân số cần được ổn định.
ĐANG HOT
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm