Thị trường hàng hóa
Theo báo cáo của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cả nước có khoảng hơn 4.000 cụm công nghiệp làng nghề, trong đó, khu vực miền Bắc chiếm khoảng 70% số cụm công nghiệp làng nghề cả nước. Tổng số cơ sở sản xuất trong các cụm công nghiệp làng nghề khoảng 40.000 cơ sở, trong đó, hơn 80% là các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều cụm công nghiệp làng nghề không chỉ sản xuất những sản phẩm truyền thống, sản phẩm mới mà còn áp dụng các công nghệ mới để sản xuất sản phẩm chất lượng cao, xuất khẩu ra nước ngoài. Phát triển cụm công nghiệp làng nghề được kỳ vọng là hạt nhân đổi mới sáng tạo tại nông thôn, nhân tố thúc đẩy cơ khí hóa, ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất.
Thông tin đưa ra tại hội thảo “Tăng cường liên kết phát triển cụm công nghiệp làng nghề ở Việt Nam”, do Hiệp hội Làng nghề Việt Nam phối hợp với Cục Công Thương địa phương (Bộ Công Thương) tổ chức, ngày 7/10 vừa qua, TS. Nguyễn Như Chinh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, cụm công nghiệp làng nghề là sự kết hợp giữa tính chất của “cụm công nghiệp” và tính “làng” của các làng nghề ở Việt Nam. Đặc điểm của các cụm công nghiệp làng nghề có nhiều nét tương đồng với cụm công nghiệp như vị trí địa lý, lao động. Bên cạnh đó, cũng có những đặc thù riêng biệt, như tính liên kết và các mối quan hệ thuộc dòng tộc là những đặc điểm khác biệt rõ rệt của các cụm công nghiệp làng nghề.
Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, phát triển cụm công nghiệp làng nghề được kỳ vọng là hạt nhân đổi mới sáng tạo tại nông thôn, nhân tố thúc đẩy cơ khí hóa, ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất. Với số lượng hơn 2.000 làng nghề truyền thống có từ 100 năm tuổi trở lên, các làng nghề Việt Nam đã sản xuất ra hàng ngàn loại sản phẩm trong nhiều lĩnh vực, đóng góp cho thị trường xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân sách.
Tuy nhiên, đánh giá khách quan cho thấy, việc phát triển làng nghề truyền thống ở nước ta còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Đó là, công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu, vốn đầu tư hạn chế (80% cơ sở không đủ điều kiện đầu tư vốn cải tiến thiết bị công nghệ hiện đại). Sản xuất thiếu ổn định, nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ nhu cầu sản xuất còn phụ thuộc và thụ động, chất lượng nguyên liệu bảo quản chưa đáp ứng yêu cầu. Việc kiểm soát ô nhiễm môi trường trong phát triển làng nghề ở nông thôn còn nhiều yếu kém. Trong bối cảnh đó, phát triển cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp để giải quyết nhiều vấn đề của làng nghề.
Bà Nguyễn Thị Hải - Chủ nhiệm Hợp tác xã chè La Bằng, cho biết hiện nay trên cả nước nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng có nhiều cụm công nghiệp làng nghề đang tồn tại, nhưng sự phát triển nói chung còn yếu, chưa phát huy được tiềm năng vốn có. “Các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong các cụm công nghiệp của làng nghề được miễn tiền thuê đất 11 năm và được xem xét vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước với mức không quá 70% tổng mức đầu tư” – bà Nguyễn Thị Hải cho hay.
Tuy nhiên trên thực tế, những khu vực hạ tầng kỹ thuật này thường chỉ là một phần rất nhỏ so với toàn bộ làng nghề xét cả về diện tích và số lượng các cơ sở sản xuất. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích lớn cho tất cả các bên liên quan, bao gồm các doanh nghiệp và cộng đồng, dẫu vậy liên kết này chưa thực sự phát triển.
Dùng hình ảnh "bánh xe" để phác họa việc phát triển cụm công nghiệp làng nghề hiện nay, ông Nguyễn Văn Lưu - Trưởng Văn phòng đại diện Hiệp hội Làng nghề Việt Nam tại tỉnh Hải Dương cho rằng không khác một chiếc “bánh xe” nhưng thiếu cả trục và nan hoa.
Chính quyền các cấp hầu như thả nổi để các cá nhân, doanh nghiệp tự bơi, muốn có quy hoạch các chủ doanh nghiệp, cá nhân phải tự vận động, chạy chọt, khi đã có quy hoạch thì người làm nghề phải tự đi mua ruộng đất của dân, tự thỏa thuận với dân, việc này vô cùng khó khăn. Khi đã có quỹ đất rồi việc làm dự án hộ gia đình cá thể, doanh nghiệp… phải qua các cửa ải sở ban ngành thời gian quá lâu vài năm cũng không xong - ông Nguyễn Văn Lưu cho hay.
Ông Bùi Quang Huân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề tỉnh Thái Nguyên, cho rằng hiện nay việc quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề chưa tốt, xây dựng cơ sở hạ tầng chưa phù hợp đã gây lên những hệ lụy xấu cho kinh tế, xã hội tại các địa phương, nhất là vấn đề môi trường. Về chính sách cho phát triển cụm công nghiệp làng nghề, ông Huân kiến nghị cần có nhóm chính sách và giải pháp quy hoạch không gian phát triển cụm công nghiệp làng nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại từng địa phương.
Cụm công nghiệp làng nghề cần khai thác tốt các yếu tố lợi thế tự nhiên sẵn có của từng địa phương gồm vị trí địa lý, địa hình; giao thông; tài nguyên thiên nhiên; chất lượng đất đai thổ nhưỡng, khí hậu, diện tích; nguồn nguyên liệu. Ông Bùi Quang Huân cũng cho rằng, việc quản lý các cụm công nghiệp làng nghề còn lúng túng, buông lỏng, chưa theo kịp với đòi hỏi của quá trình phát triển và hoạt động của các làng nghề.
Theo ông Bùi Quang Huân, Nhà nước cần chú trọng xây dựng chính sách hỗ trợ các hộ gia đình làm nghề tiểu thủ công nghiệp, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng cách hình thành và phát triển các nhân tố thị trường, nhân tố vốn, nhân tố khoa học công nghệ, nguồn nguyên liệu, kết cấu hạ tầng, thể chế kinh tế, chính sách và sự quản lý của nhà nước.
Bà Nguyễn Thị Tòng – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng mỹ thuật Sản phẩm Làng nghề Việt Nam, cho hay kinh nghiệm phát triển cụm công nghiệp làng nghề của các quốc gia cho thấy vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc định hướng và hỗ trợ bằng cơ chế, chính sách. Phát triển liên kết trong cụm công nghiệp làng nghề nên xây dựng liên kết ngành trục bánh xe và nan hoa, là liên kết được chi phối bởi một hay một vài doanh nghiệp lớn (đóng vai trò trục bánh xe) có các nhà cung cấp hay các doanh nghiệp liên quan với qui mô nhỏ hơn ở xung quanh (các nan hoa). Khi hình thành liên kết này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong làng nghề sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu tư và dây chuyền công nghệ hiện đại.
Bà Nguyễn Thị Tòng kiến nghị, cần nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển các liên kết trong cụm công nghiệp làng nghề. Điều cần nhấn mạnh là "Vai trò của Nhà nước thể hiện rõ nét, không phải bằng các can thiệp trực tiếp, mà bằng các cơ chế chính sách tổng hợp hay tạo ra một môi trường tốt nhất với hạ tầng cơ sở thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực liên kết với nhau.
Cùng quan điểm, ông Trần Anh Sơn - Trưởng phòng Quản lý công nghiệp và năng lượng (Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên) cũng cho rằng, chính quyền địa phương cần quan tâm bố trí nguồn ngân sách hỗ trợ, xây dựng cơ chế, chế tài, vận động các hộ kinh doanh gây ô nhiễm di dời vào cụm công nghiệp, có chính sách hỗ trợ các chủ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp làng nghề và cơ sở sản xuất kinh doanh trong cụm công nghiệp làng nghề.
Tag
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
Đọc thêm